Theo số liệu do Bộ NN&PTNT vừa công bố, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản trong 5 tháng đầu năm ước đạt 36,96 tỷ USD, trong đó, xuất khẩu 20,26 tỷ USD (giảm 11,1% so với cùng kỳ năm trước), nhập khẩu 13,15 tỷ USD (giảm 8,7%), xuất siêu 3,55 tỷ USD (giảm 21,1%).

tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản trong 5 tháng đầu năm ước đạt 36,96 tỷ USD.

Tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu nông, lâm, thuỷ sản trong 5 tháng đầu năm ước đạt 36,96 tỷ USD. 

Trong năm tháng đầu năm, nhiều mặt hàng xuất khẩu chính có giá trị xuất khẩu giảm so với cùng kỳ năm trước nên tổng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 20,26 tỷ USD, giảm 11,1%. Mặc dù xuất khẩu thuỷ sản, lâm sản vẫn liên tục giảm nhưng nhờ xuất khẩu nông sản và chăn nuôi tăng trưởng tốt nên tình trạng giá trị xuất khẩu giảm đang dần được cải thiện.

Trong khi nhóm nông sản đạt 10,3 tỷ USD, tăng 9,9%, chăn nuôi đạt 190 triệu USD, tăng 34,5% thì thuỷ sản đạt 3,47 tỷ USD, giảm 25,9%; lâm sản đạt 5,52 tỷ USD, giảm 26,8%; đầu vào sản xuất đạt 779 triệu USD, giảm 25,9% và muối đạt 2,0 triệu USD, giảm 11,9%.

Nhiều mặt hàng vẫn có giá trị xuất khẩu cao hơn cùng kỳ năm trước như: cao nhất là gạo đạt 2,02 tỷ USD, tăng 49%; càphê 2,02 tỷ USD, tăng 0,2%; rau quả 1,97 tỷ USD, tăng 39%; hạt điều 1,28 triệu USD, tăng 5,5%; thịt, phụ phẩm 58 triệu USD, tăng 59,1%…

Bên cạnh đó, một số mặt hàng lại có giá trị xuất khẩu giảm như: Cao su 799 triệu USD, giảm 24%; chè đạt 65 triệu USD, giảm 18,9%; hồ tiêu đạt 414 triệu USD, giảm 9,9%; sắn và sản phẩm sắn đạt 539 triệu USD, giảm 14,3%; cá tra 690 triệu USD, giảm 40,7%; tôm 1,22 tỷ USD, giảm 34,4%, gỗ và sản phẩm gỗ 5,1 tỷ USD, giảm 27,3%; mây, tre, cói thảm 298 triệu USD, giảm 28,4%.

Giá xuất khẩu bình quân một số nông sản xuất khẩu chính giảm. Hồ tiêu 3.011 USD/tấn, giảm 34,9%; phân bón các loại 415 USD/tấn, giảm 35,2%; cao su 1.378 USD/tấn, giảm 21,5%; sắn và sản phẩm từ sắn 382 USD/tấn, giảm 12%… riêng giá gạo đạt 517 USD/tấn, tăng 5,8%; cà phê đạt 2.295 USD/tấn, tăng 2,4%.

Về thị trường xuất khẩu, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản trong 5 tháng đầu năm tới các thị trường thuộc khu vực châu Á đạt 9,73 tỷ USD (tăng 2,3%); châu Mỹ đạt 4,42 tỷ USD (giảm 34,6%); châu Âu đạt 2,42 tỷ USD (giảm 13,2%); châu Phi đạt 327 triệu USD (giảm 5,6%); châu Đại Dương đạt 280 triệu USD (giảm 28%).

Theo Bộ NN&PTNT đánh giá các thị trường xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn của Việt Nam đang dần tăng trưởng trở lại như: Trung Quốc mở cửa trở lại; xuất khẩu sang Nhật Bản, khu vực châu Á tăng trở lại.

Các thị trường xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn của Việt Nam như: Trung Quốc, Nhật Bản, khu vực châu Á,..đang dần tăng trưởng trở lại.

Trung Quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản tiếp tục duy trì là 3 thị trường xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn nhất; trong đó giá trị xuất khẩu sang Trung Quốc chiếm tỷ trọng cao nhất với 20,4% (tăng 2,9% so với cùng kỳ năm trước); Hoa Kỳ chiếm 19,8% (giảm tới 35,2%) và Nhật Bản chiếm 7,8% (giảm 1,2%).

Theo Bộ NN&PTNT đánh giá các thị trường xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản lớn của Việt Nam đang dần tăng trưởng trở lại như: Trung Quốc mở cửa trở lại; xuất khẩu sang Nhật Bản, khu vực châu Á tăng trở lại.

Các doanh nghiệp trước đó cũng chia sẻ đã nhận thấy những dấu hiệu hồi phục tích cực từ giữa tháng 4. Hơn nữa để chủ động đối phó với sụt giảm đơn hàng, nhiều doanh nghiệp đã chủ động mở rộng, đa dạng hoá các thị trường xuất khẩu, đặc biệt tận dụng lợi thế từ các thị trường mà Việt Nam có Hiệp định thương mại tự do.

Tuy nhiên, Bộ NN&PTNT nhận định kinh tế thế giới vẫn tiếp tục gặp nhiều khó khăn, lạm phát cao tại một số quốc gia phát triển, các chính sách thắt chặt tiền tệ, nhất là ở các thị trường lớn như Hoa Kỳ và Châu Âu khiến các doanh nghiệp gặp khó khăn trong ký kết và thực hiện các đơn hàng. Xung đột Nga-Ukraine tiếp tục diễn biến phức tạp… Cùng với đó, nhiều quốc gia thực thi chính sách tăng cường bảo hộ sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước; đẩy mạnh sản xuất nông sản để chủ động nguồn cung.

Trong khi đó, Bộ NN&PTNT cho biết trong nước, các mặt hàng quả có nguồn cung dồi dào, tương đối ổn định, nhiều loại sắp vào vụ thu hoạch (xoài, sầu riêng, mít, chanh, vải). Chăn nuôi gia súc gia cầm vẫn nhiều khó khăn.

Do đó, Bộ NN&PTNT cảnh báo thời tiết diễn biến bất thường, El Nino nắng nóng gay gắt hơn, nguy cơ thiếu nước phục vụ sản xuất nông, lâm, thuỷ sản và cháy rừng rất cao ở nhiều địa phương; dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ bùng phát ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh nông, lâm, thuỷ sản.

Trao đổi với DĐDN, TS Phùng Giang Hải, Viện Chính sách và Chiến lược phát triển Nông nghiệp Nông thôn, Bộ NN&PTNT dự báo, những tháng cuối năm xuất khẩu nông sản của Việt Nam sẽ tốt trở lại khi các thị trường lớn như Mỹ, EU kiểm soát lạm phát tốt hơn. Lần tăng lãi suất sắp tới của Mỹ được giới chuyên môn dự báo là sẽ tương đối nhẹ nhàng và kì vọng FED chuẩn bị kết thúc việc áp dụng giải pháp này. Thị trường EU cũng có nhiều tín hiệu tích cực hơn từ các giải pháp kiểm soát lạm phát đi kèm với các gói hỗ trợ nhằm phục hồi kinh tế. “Do đó, chúng ta vẫn có thể kì vọng xuất khẩu nông, lâm, thuỷ sản sẽ phục hồi từ quý III/2023”, TS Phùng Giang Hải lạc quan.

Cũng theo ông Phùng Giang Hải, cơ bản Mỹ, EU, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… vẫn sẽ tiếp tục là những thị trường truyền thống chiếm tỷ trọng lớn, ngay trong bối cảnh khó khăn chung như thời gian vừa qua thì đây vẫn là những thị trường dẫn đầu. Ví dụ, thị trường Mỹ mặc dù có quá nhiều khó khăn nhưng cũng chỉ tụt xuống vị trí thứ 2 và vẫn chiếm tỷ trọng gần 19% nông sản xuất khẩu của Việt Nam trong quý I/2023. Kinh tế phục hồi thì Mỹ sẽ lại nhanh chóng trở lại vị trí dẫn đầu về thị trường xuất khẩu của nông sản Việt.

Về thị trường mới, hiện Việt Nam cũng đang đẩy mạnh xúc tiến một số thị trường như Trung Đông hay Vương quốc Anh. Với Vương quốc Anh và gần đây đã nhận được nhiều tín hiệu rất tích cực để có thể đẩy mạnh hoạt động thương mại nông sản sang thị trường này.

“Một trong những điểm cần tận dụng là các Hiệp định đa phương lớn như CPTPP hay EVFTA cũng như các quan hệ song phương với Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… để hỗ trợ xuất khẩu. Tuy nhiên, chúng ta vẫn phải chuẩn bị, đầu tư, phát triển sản xuất đáp ứng được các tiêu chuẩn về vệ sinh an toàn thực phẩm, bền vững, phù hợp với yêu cầu của thị trường cũng như không thể bỏ qua yếu tố cạnh tranh về giá”, TS Phùng Giang Hải lưu ý.